Trường hợp nào được nộp tiền SDĐ 40%?
Bà Đàm Thị Sen (phamxuanluyen@zing.vn)
Trả lời:
Trường hợp không phải nộp tiền sử dụng đất
Khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 quy định: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
- Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
- Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
Ảnh minh họa |
Đất cấp trái thẩm quyền phải nộp tiền sử dụng đất
Trường hợp bà Đàm Thị Sen, ngày 15/12/1992 được đơn vị công tác phân phối (cấp) đất để xây dựng nhà ở gia đình. Để được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong hồ sơ phải có giấy tờ về đất để chứng minh việc đơn vị quân đội đã phân phối (cấp) đất để làm nhà ở gia đình và phải được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp phù hợp với quy hoạch khu dân cư được phê duyệt.
Vào thời điểm bà Sen được đơn vị quân đội cấp đất (15/12/1992), thẩm quyền giao đất thực hiện theo quy định tại Điều 13 Luật Đất đai năm 1987: UBND cấp tỉnh có thẩm quyền giao đất đối với đất khu dân cư thuộc nội thành nội thị, UBND cấp huyện có thẩm quyền giao đất khu dân cư nông thôn cho nhân dân làm nhà ở. Như vậy có cơ sở xác định việc đơn vị quân đội phân phối (cấp) đất cho quân nhân làm nhà ở gia đình là không đúng thẩm quyền.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 120/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 bổ sung khoản 4 vào Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ, thực hiện thu tiền sử dụng đất khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất như sau:
Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất nhưng đã phân phối (cấp) trái thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của tổ chức làm nhà ở trước ngày 15/10/1993, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% theo giá đất do UBND cấp tỉnh quy định như trường hợp bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở; thu bằng 100% theo giá đất ở do UBND cấp tỉnh quyết định phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích vượt hạn mức giao đất ở.
Ls Trần Văn Toàn
VPLS Khánh Hưng – Đoàn Luật sư Hà Nội
- 236
- By Admin
- 29/07/2013
- 17