Thửa đất có cả vườn, ao tính diện tích như thế nào?
Thửa đất này gia đình tôi sử dụng trước ngày 18/12/1980 nhưng không có giấy tờ để chứng minh nguồn gốc sử dụng, nay được cộng đồng dân cư nơi cư trú xác nhận sử dụng đất trước 18/12/1980 và đã được UBND xã xác nhận.
Tôi muốn được biết, căn cứ Luật Đất đai 2013, gia đình tôi có được đăng ký chuyển mục đích sử dụng 2.700m2 đất vườn ao còn lại chưa được công nhận là đất ở sang đất ở nông thôn (sau khi đã trừ 300m2 đất ở trong hạn mức quy định) hay không, hay chỉ được công nhận không quá 5 lần hạn mức đất ở (1.500m2).
Theo tôi được biết, theo quy định tại Điều 100, 103 Luật Đất đai thì phải đăng ký trong hồ sơ địa chính (sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất) trước ngày 15/10/1993. Tuy nhiên trên địa bàn huyện Thăng Bình khi thực hiện Nghị định 64/CP thì năm 1997 mới tiến hành cấp giấy chứng nhận. Do vậy toàn bộ sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất trên địa bàn huyện Thăng Bình được lập sau năm 1997.
Cao Ngọc Sang (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam)
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet |
Trả lời:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam trả lời vấn đề này như sau:
Tại Khoản 2 và khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã quy định:
“2. Loại giấy tờ làm căn cứ xác định diện tích đất ở theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai là giấy tờ có thể hiện một hoặc nhiều mục đích nhưng trong đó có mục đích để làm nhà ở, đất ở hoặc thổ cư”.
“5. Diện tích đất ở của hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất ở có vườn, ao đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 được xác định như sau:
a) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì diện tích đất ở được xác định là diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp.
b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước đây mà người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này nhưng diện tích đất ở chưa được xác định theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai, Khoản 3 Điều này và chưa được xác định lại theo quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều 45 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, nay người sử dụng đất có đơn đề nghị xác định lại diện tích đất ở hoặc khi Nhà nước thu hồi đất thì diện tích đất ở được xác định lại theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai và Khoản 3 Điều này; hộ gia đình, cá nhân không phải nộp tiền sử dụng đất, được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với diện tích đã được xác định lại là đất ở”.
Từ những quy định nêu trên, nhận thấy:
Tại Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 Luật Đất đai được nêu tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP là quy định liên quan đến giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai, mà những giấy tờ về quyền sử dụng đất đó (ghi là thổ cư) phải là giấy tờ được cấp trước ngày 15/10/1993 hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất hoặc sổ địa chính được lập trước ngày 15/10/1993 thì mới phù hợp với quy định này.
Còn ở đây Giấy chứng nhận được cấp sau ngày 15/10/1993, mặc dù trên Giấy chứng nhận ghi là đất thổ cư nhưng lại không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP như đã trình bày ở trên.
Do đó, trường hợp hợp thửa đất ở có vườn, ao đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 1/7/2014, nếu có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP, nhưng diện tích đất ở chưa được xác định theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai, Khoản 3 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và chưa được xác định lại theo quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều 45 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP nay người sử dụng đất có nhu cầu làm đơn thì thực hiện xác định lại theo quy định tại điểm b Khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP nêu trên.
- 306
- By Admin
- 03/12/2014
- 17