• 0933331087
  • nhadatgialai.company@gmail.com

Thông tin bất động sản Việt Nam: số liệu chỉ mới để tham khảo

Thông tin bất động sản Việt Nam: số liệu chỉ mới để tham khảo

Thông tin bất động sản Việt Nam số liệu chỉ mới để tham khảo

Hiện nay, ngay cả tại hai thành phố lớn là TPHCM và Hà Nội, không cơ quan nào có được số liệu trong 1-2 năm tới sẽ có bao nhiêu mét vuông văn phòng hoặc căn hộ.

Một số công ty như CBRE, Vinaland, Vietress cũng đưa ra các số liệu thống kê nhưng đều là số liệu tự thu thập, tổng hợp từ các khách hàng của chính các công ty này, vì vậy nó chỉ có giá trị tham khảo.

Tỷ trọng đóng góp của ngành bất động sản trong cơ cấu GDP không nhỏ, do đó cần có hệ thống thông tin bất động sản để các tổ chức tài chính, các ngân hàng  có cơ sở xác thực cho việc tính toán mức độ khả thi cho các dự án.

Tổng mức cung tín dụng cho thị trường bất động sản sẽ phải nằm trong mức hợp lý của quan hệ cung cầu thực.

Đối với quản lý nhà nước, hệ thống thông tin bất động sản sẽ là công cụ hữu ích phục vụ cho việc dự báo thị trường, từ đó các nhà điều hành có thể xây dựng cơ chế vĩ mô để điều hành thị trường chứ không cần thiết phải can thiệp trực tiếp vào thị trường.

Tóm tắt hệ thống thông tin bất động sản

Các nước trên thế giới quá trình cấp phép và đăng ký và các giao dịch mua bán tất cả đều thông qua ngân hàng, nên việc thu thập dữ liệu cho các cổng thông tin bất động sản không phải là điều phức tạp.

Căn cứ các dữ liệu khảo sát tại 10 nước được lựa chọn bao gồm năm nước phát triển (Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật) và năm nước tại châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan), mỗi nước đều xây dựng hệ thống thông tin bất động sản ở mức độ chi tiết khác nhau, nhưng nhìn chung có thể xếp các dữ liệu vào ba nhóm chính như sau:

1. Thông tin liên quan đến CUNG: số lượng nhà ở (hoặc cao ốc) khởi công xây dựng, tổng chi tiêu cho xây dựng, giá trị đặt hàng cho các hợp đồng xây dựng, các giấy phép xây dựng đã cấp và tiến độ, số lượng công trình hoàn thành đưa vào sử dụng.

 
Các số liệu từ nguồn cung của các nước chủ yếu chỉ dựa trên các dự án được cấp phép và khởi công chứ không dựa vào số liệu đăng ký đầu tư.

 
Tại Việt Nam, các số liệu này có thể được cập nhật một phần từ chính các cơ quan cấp phép xây dựng tại địa phuơng.

 
Hệ thống thông tin có thể được công bố chi tiết đến mức tính được số lượng dự án bị đình hoãn.

 
2. Thông tin liên quan đến khối lượng thị trường: số lượng nhà mới đã bán, số lượng bán nhà đã có sẵn, số lượng nhà xây xong chưa bán hết.

Tại Việt Nam, các số liệu này rất khó thu thập vì từ trước đến nay các chủ đầu tư đều không muốn công bố số liệu thật.

3. Thông tin liên quan đến giá trị thị trường: chỉ số giá xây dựng/chỉ số giá vật liệu xây dựng, chỉ số thị trường nhà ở, chỉ số giá bán nhà ở bình quân, chỉ số giá đất bình quân.

Tại Việt Nam, các chỉ số này hiện vẫn đang được lập một cách rời rạc theo từng khu vực do các công ty kinh doanh bất  động sản tự xây dựng. Sắp tới, Bộ Xây dựng sẽ đưa vào áp dụng chỉ số REMI (chỉ số bất động sản Việt Nam).

Tuy nhiên, tại phần lớn các nước được nghiên cứu thì chỉ số này cần đi kèm với chỉ số giá xây dựng, vật liệu xây dựng và chỉ số giá đất để có thể kiểm soát việc xác định giá trị bất động sản một cách hợp lý.

 Các chỉ số về giá các loại cổ phiếu/chứng khoán bất động sản cũng là thông tin có liên quan chặt chẽ đến thị trường bất động sản, nhưng các chỉ số này được theo dõi riêng biệt theo hệ thống của thị trường chứng khoán, không thuộc nhóm thông tin này.

 
4. Thông tin liên quan đến CẦU: số lượng đơn xin vay mua nhà, giá trị giải ngân cho khoản vay này, dự kiến mức tăng hộ gia đình mới.

Tại Việt Nam, các số liệu trên có thể thu thập được từ Ngân hàng Nhà nước và các địa phương.

Tuy nhiên, cách cập nhật kịp thời và chính xác các số liệu này là điều khó khăn vì phải có giải pháp để loại trừ nhu cầu do đầu cơ và số lượng đơn xin mua nhà trong diện được giải chấp sẽ thường xuyên thay đổi phụ thuộc chính sách tín dụng của ngân hàng.

 

Theo TBKTSG
  • 0
  • By Admin
  • 01/12/2008
  • 17